Nhạy cảm kháng sinh là gì? Các công bố khoa học về Nhạy cảm kháng sinh

Nhạy cảm kháng sinh là tình trạng cơ thể không phản ứng đúng cách khi sử dụng kháng sinh. Điều này có thể dẫn đến việc kháng sinh không hoạt động hiệu quả hoặc ...

Nhạy cảm kháng sinh là tình trạng cơ thể không phản ứng đúng cách khi sử dụng kháng sinh. Điều này có thể dẫn đến việc kháng sinh không hoạt động hiệu quả hoặc gây ra các phản ứng phụ nguy hiểm. Nguyên nhân của tình trạng này có thể là do di truyền, sử dụng kháng sinh quá nhiều, không đúng cách hoặc trong thời gian quá dài. Việc nhạy cảm kháng sinh cũng có thể gây ra sự kháng cự kháng sinh, làm cho việc điều trị các bệnh nhiễm khuẩn trở nên khó khăn hơn. Để tránh tình trạng này, người bệnh cần tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ khi sử dụng kháng sinh và không tự ý sử dụng thuốc mà không được chỉ định.
Nhạy cảm kháng sinh có thể biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau, từ việc gây ra phản ứng dị ứng nhẹ như phát ban và ngứa da đến các phản ứng nặng hơn như phát ban toàn thân, phù nề, khó thở, và thậm chí là sốc phản vệ. Một số người cũng có thể trải qua các vấn đề tác động lâu dài sau khi sử dụng kháng sinh, như vi khuẩn kém nhạy cảm hoặc sự phát triển của vi khuẩn siêu kháng sinh.

Để xác định có nhạy cảm kháng sinh hay không, người bệnh có thể thử nghiệm dị ứng với kháng sinh thông qua các xét nghiệm dị ứng hoặc với sự giám sát của bác sĩ. Khi đã biết tình trạng nhạy cảm, người bệnh nên thông báo cho bác sĩ và nhà dược học để tránh sử dụng nhầm kháng sinh có thể gây ra phản ứng dị ứng.

Điều quan trọng nhất là hãy luôn tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ và nhà dược học khi sử dụng kháng sinh, và không bao giờ tự y án sử dụng hoặc chia sẻ thuốc với người khác.
Ngoài ra, việc sử dụng kháng sinh một cách thận trọng và có trách nhiệm cũng góp phần giảm thiểu nguy cơ phát triển sự kháng cự kháng sinh từ vi khuẩn. Khi sử dụng kháng sinh, người bệnh cần tuân thủ đúng liều lượng và thời gian sử dụng theo đúng hướng dẫn của bác sĩ.

Đồng thời, việc tăng cường vệ sinh cá nhân và ứng dụng các biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn cũng là một phần quan trọng trong việc giảm thiểu sự phụ thuộc vào kháng sinh. Khi có thể, việc áp dụng các phương pháp điều trị tự nhiên hoặc hỗ trợ kháng cự cơ địa cũng cần được xem xét để giảm thiểu sự phụ thuộc vào kháng sinh.

Cuối cùng, quản lý một chế độ ăn uống lành mạnh và tạo ra môi trường sống không có nhiễm khuẩn cũng giúp cơ thể tăng cường sức đề kháng, giúp giảm nguy cơ nhiễm khuẩn và sử dụng kháng sinh trong tương lai.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nhạy cảm kháng sinh":

Sự tương quan giữa kiểu gen kháng thuốc được xác định bằng các phương pháp multiplex PCR và các mẫu nhạy cảm kháng sinh của Staphylococcus aureusStaphylococcus epidermidis Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 44 Số 2 - Trang 231-238 - 2000
TÓM TẮT

Các chủng phân lập lâm sàng của Staphylococcus aureus (tổng cộng 206) và S. epidermidis (tổng cộng 188) từ nhiều quốc gia đã được thử nghiệm bằng các phương pháp PCR đa dạng để phát hiện các gen kháng sinh có liên quan lâm sàng liên quan đến staphylococci. Các gen mục tiêu liên quan đến khả năng kháng lại oxacillin ( mecA ), gentamicin [ aac (6′)- aph (2")], và erythromycin ( ermA , ermB , ermC , và msrA ). Chúng tôi đã tìm thấy sự tương quan gần như hoàn hảo giữa phân tích genotyp và phenotyp cho hầu hết 394 chủng này, cho thấy các mối tương quan sau đây: 98% đối với kháng thuốc oxacillin, 100% đối với kháng thuốc gentamicin, và 98.5% đối với kháng thuốc erythromycin. Các kết quả không nhất quán là (i) tám chủng được xác định dương tính bằng PCR cho mecA hoặc ermC nhưng nhạy cảm với kháng sinh tương ứng dựa trên khuếch tán đĩa và (ii) sáu chủng của S. aureus được xác định âm tính bằng PCR cho mecA hoặc cho bốn gen kháng thuốc erythromycin được lựa chọn nhưng lại kháng với kháng sinh tương ứng. Để chứng minh in vitro rằng tám chủng nhạy cảm mang gen kháng thuốc có thể trở nên kháng thuốc, chúng tôi đã cấy lại các chủng nhạy cảm trên môi trường với các gradient tăng dần của kháng sinh. Chúng tôi đã có thể chọn lọc các tế bào thể hiện kiểu hình kháng thuốc cho tất cả tám chủng này mang gen kháng dựa trên khuếch tán đĩa và xác định MIC. Bốn chủng kháng oxacillin âm tính với mecA đã dương tính với PCR cho blaZ và có kiểu hình của những người sản xuất β-lactamase siêu, điều này giải thích kiểu hình kháng oxacillin ở ngưỡng của chúng. Kháng erythromycin cho hai chủng được xác định âm tính bằng PCR có thể liên quan đến một cơ chế mới. Nghiên cứu này nhấn mạnh sự hữu ích của các xét nghiệm dựa trên DNA để phát hiện các gen kháng thuốc kháng sinh liên quan đến nhiễm trùng staphylococcal.

#Staphylococcus aureus #Staphylococcus epidermidis #kháng thuốc #gen #multiplex PCR
Mô hình nhạy cảm với kháng sinh của các chủng vi khuẩn từ nhiễm trùng vết thương và độ nhạy của chúng với các tác nhân địa phương thay thế tại Bệnh viện Đặc biệt Jimma, Tây Nam Ethiopia Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 13 - Trang 1-10 - 2014
Nhiễm trùng vết thương là một trong những vấn đề sức khỏe do sự xâm nhập và gia tăng của các sinh vật gây bệnh. Thông tin về các mầm bệnh địa phương và độ nhạy cảm với các tác nhân kháng khuẩn, cũng như các tác nhân địa phương như axit acetic là rất quan trọng để điều trị bệnh nhân thành công. Nghiên cứu nhằm xác định mô hình nhạy cảm kháng khuẩn của các chủng vi khuẩn từ nhiễm trùng vết thương và độ nhạy của chúng với các tác nhân địa phương thay thế tại Bệnh viện Đặc biệt Jimma. Một nghiên cứu cắt ngang đã được thực hiện trên bệnh nhân nhiễm trùng vết thương đến Bệnh viện Đặc biệt Jimma, từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2013. Mẫu vết thương được thu thập bằng cách sử dụng bông gòn vô trùng và được xử lý để phân lập vi khuẩn và kiểm tra độ nhạy với các tác nhân kháng khuẩn, axit acetic, hydrogen peroxide và dung dịch dabkin theo kỹ thuật vi sinh chuẩn. Các xét nghiệm sinh hóa được thực hiện để xác định loài của các sinh vật. Thử nghiệm độ nhạy được thực hiện bằng phương pháp khuếch tán đĩa Kirby-Bauer. Nồng độ ức chế tối thiểu và nồng độ diệt khuẩn tối thiểu được xác định bằng phương pháp pha loãng ống. Trong nghiên cứu này, 145 chủng vi khuẩn đã được thu hồi từ 150 mẫu cho thấy tỷ lệ phân lập là 87,3%. Vi khuẩn chiếm ưu thế được phân lập từ các vết thương nhiễm trùng là Staphylococcus aureus 47 (32,4%) tiếp theo là Escherichia coli 29 (20%), loài Proteus 23 (16%), Staphylococci không đông tụ 21 (14,5%), Klebsiella pneumoniae 14 (10%) và Pseudomonas aeruginosa 11 (8%). Tất cả các chủng đều cho thấy tỷ lệ kháng kháng sinh cao đối với ampicillin, penicillin, cephalothin và tetracycline. Mô hình kháng đa thuốc tổng thể được tìm thấy là 85%. Axit acetic (0,5%), dung dịch Dabkin (1%) và 3% hydrogen peroxide là diệt khuẩn đối với tất cả các vi khuẩn phân lập và hiệu ứng gây chết được quan sát thấy khi áp dụng trong 10 phút. Trong thử nghiệm độ nhạy in vitro, ampicillin, penicillin, cephalothin và tetracycline là những tác nhân kém hiệu quả nhất. Gentamicin, norfloxacin, ciprofloxacin, vancomycin và amikacin là những kháng sinh hiệu quả nhất. Axit acetic (0,5%), dung dịch dabkin (1%) và H2O2 (3%) là diệt khuẩn đối với tất cả các chủng vi khuẩn phân lập.
#nhiễm trùng vết thương #khuẩn #nhạy cảm với kháng sinh #tác nhân địa phương #Bệnh viện Đặc biệt Jimma
Những Nhận Thức Sớm Về Tương Tác Của Các Kháng Sinh β-Lactam Khác Nhau Và Các Chất Ức Chế β-Lactamase Đối Với Các Dạng Hòa Tan Của PBP1a Acinetobacter baumannii Và PBP3 Acinetobacter sp. Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 56 Số 11 - Trang 5687-5692 - 2012
TÓM TẮT

Acinetobacter baumannii là một tác nhân gây bệnh ngày càng trở nên nghiêm trọng tại các bệnh viện ở Hoa Kỳ. Số lượng kháng sinh có khả năng điều trị A. baumannii đang ngày càng hạn chế. Rất ít thông tin được biết đến về vai trò của các protein gắn penicillin (PBPs), là mục tiêu của các kháng sinh β-lactam, trong sự nhạy cảm và kháng β-lactam-sulbactam ở A. baumannii . Sự giảm biểu hiện của PBPs cũng như sự mất khả năng gắn β-lactams vào PBPs đã được chứng minh trước đây là góp phần gây ra sự kháng β-lactam ở A. baumannii . Sử dụng một thử nghiệm in vitro với một β-lactam báo cáo, Bocillin, chúng tôi đã xác định rằng nồng độ ức chế 50% (IC 50 s) cho PBP1a từ A. baumannii và PBP3 từ Acinetobacter sp. dao động từ 1 đến 5 μM cho một loạt các β-lactams. Ngược lại, PBP3 thể hiện một khoảng IC 50 hẹp hơn chống lại các chất ức chế β-lactamase so với PBP1a (khoảng, 4 đến 5 so với 8 đến 144 μM, tương ứng). Một mô hình phân tử với ampicillin và sulbactam được định vị tại vị trí hoạt động của PBP3 cho thấy rằng cả hai hợp chất đều tương tác giống nhau với các dư lượng Thr526, Thr528 và Ser390. Chấp nhận rằng nhiều tương tác với các mục tiêu thành tế bào là có thể với sự kết hợp ampicillin-sulbactam, IC 50 thấp của ampicillin và sulbactam đối với PBP3 có thể bật mí lý do vì sao sự kết hợp này có hiệu quả chống lại A. baumannii . Việc phân tích vai trò của PBPs trong sự nhạy cảm và kháng β-lactam sẽ đưa chúng ta gần hơn một bước nữa trong việc xác định những PBPs nào là mục tiêu tốt nhất cho các β-lactams mới.

#Acinetobacter baumannii #kháng sinh β-lactam #pêptit gắn penicillin #kháng β-lactam #chất ức chế β-lactamase #tính nhạy cảm #kháng thuốc.
TÍNH NHẠY CẢM KHÁNG SINH VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VIÊM PHỔI PHẾ CẦU TẠI BỆNH VIỆN NHI THANH HÓA NĂM 2021- 2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm xác định tính nhạy cảm kháng sinh và kết quả điều trị viêm phổi do phế cầu tại Bệnh viện Nhi Thanh Hóa. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả trên 154 bênh nhi viêm phổi do phế cầu dưới 16 tuổi, điều trị tại Bệnh viện Nhi Thanh Hóa từ tháng 5 năm 2021 đến tháng 4 năm 2022. Kết quả: Các chủng phế cầu còn nhạy cảm với Cloramphenicol 81,5%, Ticarcilin 75,3%, nhạy cảm cao với Vancomycin 98,1% và Piperacillin 95,5%. Các chủng phế cầu có tỷ lệ kháng rất cao với Azetrenam 99,4%, Erythromycin 91,6% và Clindamycin 92,9%. Bệnh nhi khỏi bệnh hoàn toàn chiếm 91%, khoảng 0,6% có di chứng dày màng phổi và không có bệnh nhi tử vong. Thời gian điều trị trung bình là 7,91 ± 3,54 ngày. Kết luận: Phế cầu có tỷ lệ kháng cao với các kháng sinh điều trị viêm phổi thông thường. Đây là lý do gây điều trị viêm phổi do phế cầu kéo dài.
#Viêm phổi #trẻ em #phế cầu #nhạy cảm kháng sinh
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ TÍNH NHẠY CẢM KHÁNG SINH CỦA STREPTOCOCCUS PNEUMONIAE GÂY VIÊM PHỔI CỘNG ĐỒNG Ở TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI NGHỆ AN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của viêm phổi cộng đồng do Streptococcus Pneumoniae (S.Pneumoniae) và mô tả tính nhạy cảm kháng sinh của các chủng S.Pneumoniae  phân lập được ở trẻ dưới 5 tuổi bị viêm phổi cộng đồng tại bệnh viện Sản Nhi Nghệ An. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu, 65 bệnh nhân dưới 5 tuổi đủ tiêu chuẩn chẩn đoán viêm phổi cộng đồng do S.Pneumoniae  điều trị tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An từ 1/2021 – 9/2021 được nghiên cứu, mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của viêm phổi, xác định tính nhạy cảm kháng sinh bằng đo nồng độ ức chế tối thiểu (MIC). Kết quả và kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân Nam/Nữ là:1,9/1. Lứa tuổi hay gặp nhất là 2 tháng – 24 tháng với tỷ lệ 76,9%. Tỷ lệ bệnh nhân đã dùng kháng sinh trước vào viện cao, chiếm 64,6%. Các triệu chứng như sốt, ho, chảy nước mũi, thở nhanh, phổi có ran gặp tỷ lệ > 69%. Xét nghiệm chủ yếu dựa vào Xquang tim phổi, công thức máu, CRP và nuôi cấy dịch tỵ hầu làm kháng sinh đồ. Viêm tai giữa ứ mủ gặp 43,1%. S.Pneumoniae kháng với Azithromycin, Clarithromycin, Erythromycin là 100%; kháng với Cefotaxime là 61,5%, Ceftriaxone là 52,3%, Penicillin là 18,5%. S.Pneumoniae  còn nhạy 100% với Rifampicin, Vancomycin, Linezolid, Levofloxacin.  
#Streptococcus Pneumoniae #phế cầu #viêm phổi #kháng kháng sinh #trẻ em
Tỷ lệ lưu hành và đặc điểm nhạy cảm với kháng sinh của các tác nhân gây bệnh đường tiết niệu ở bệnh nhân trưởng thành tại Madinah, Ả Rập Saudi Dịch bởi AI
BMC Infectious Diseases -
Tóm tắt Đặt vấn đề

Nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI) được coi là một trong những nhiễm trùng phổ biến nhất có thể dẫn đến nhiều biến chứng thận. Chúng chiếm gần 10% tổng số nhiễm trùng ở Ả Rập Saudi, là nguyên nhân thứ hai dẫn đến việc nhập viện tại khoa cấp cứu. Các tác nhân gây bệnh vi khuẩn, chủ yếu là Escherichia coli, Klebsiella spp., Enterococcus spp., Proteus spp., và Staphylococcus spp., là các tác nhân chủ yếu gây UTI. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tỷ lệ lưu hành và đặc điểm nhạy cảm với kháng sinh của các tác nhân gây bệnh đường tiết niệu ở bệnh nhân trưởng thành từ Madinah, Ả Rập Saudi.

Phương pháp

Một nghiên cứu hồi cứu cắt ngang đã được thực hiện bằng cách sử dụng dữ liệu thu thập từ các bệnh nhân đã đến thăm Bệnh viện Tổng hợp King Fahad tại Madinah, Ả Rập Saudi. Dữ liệu bao gồm 16.803 mẫu cấy vi khuẩn nước tiểu và thông tin về nhạy cảm kháng sinh của chúng được thu thập từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 10 năm 2021.

Kết quả

Trong số 16.803 mẫu đã được thử nghiệm, 3.937 (23,4%) có kết quả dương tính với cấy vi khuẩn nước tiểu. Tỷ lệ UTI có phần cao hơn ở phụ nữ (52,1%) so với nam giới (47,9%). Escherichia coli (29,8%) là loại vi khuẩn phổ biến nhất, tiếp theo là Klebsiella spp. (23,2%) và Pseudomonas spp. (8,4%). Đối với vi khuẩn Gram dương, Enterococcus spp. (10,8%) là phổ biến nhất, tiếp theo là Streptococcus spp. (8%) và Staphylococcus spp. (3,3%). Vi khuẩn Gram âm thể hiện tỷ lệ kháng thuốc cao đối với aztreonam (> 83,3%), ampicillin (78,8%) và cephalexin (68,5%). Enterococcus spp. cho thấy tỷ lệ kháng cao (> 62,3%) đối với ciprofloxacin, gentamicin và tetracycline. Ngược lại, Streptococcus spp. cho thấy tỷ lệ kháng đáng kể (> 76,6%) đối với colistin và trimethoprim/sulfamethoxazole.

Kết luận

Để tối ưu hóa liệu pháp điều trị và giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng đường tiết niệu kháng nhiều loại thuốc, các bác sĩ nên xem xét các xu hướng dịch tễ học địa phương và các mô hình kháng sinh của các tác nhân gây bệnh phổ biến trước khi bắt đầu bất kỳ liệu pháp kháng sinh trải nghiệm nào.

ĐỊNH DANH LOÀI VÀ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NHẠY CẢM VỚI THUỐC KHÁNG NẤM CỦA VI NẤM CANDIDA PHÂN LẬP TỪ ĐƯỜNG TIÊU HÓA BỆNH NHI SƠ SINH TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 3 Số 35 - Trang 32-38 - 2021
Đặt vấn đề: Nấm Candida ở đường tiêu hóa là tình trạng thường gặp ở trẻ sơ sinh. Vi nấm có thể gây thể bệnh phổ biến là viêm niêm mạc miệng lưỡi ở độ tuổi này. Đồng thời nấm Candida cũng làm một trong các tác nhân gây nhiễm trùng sơ sinh thường gặp ở ICU Nhi. Mục tiêu: 1. Định danh loài vi nấm Candida ở đường tiêu hóa của bệnh nhi sơ sinh, 2. Đánh giá mức độ nhạy cảm với thuốc kháng nấm của vi nấm phân lập. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, thực hiện trên các bệnh nhi được chẩn đoán bệnh lý đang điều trị tại phòng Nhi Sơ sinh, khoa Sản tại bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế, thời gian từ 1.2020 -12.2020. Kết quả: Tỷ lệ nấm Candida hoại sinh tại đường tiêu hóa là 28,83%. Trong đó, C. non albicans chiếm tỷ lệ cao hơn so với C. albicans (76,67% vs 23,33%).  Không ghi nhận tình trạng đề kháng của Candida với amphotericine B và nystatin.Tỷ lệ đề kháng của vi nấm candida với fluconazole, itraconazole, voriconazole, caspofungin và 5-flucystosin lần lượt là 6,67%, 3,33%, 3,33%, 23,33% và 16,66%. C. albicans nhạy cảm tốt với nhóm azoles và caspofungin. Trong khi đó, C. non albicans có tỷ lệ nhất định đề kháng với các thuốc này. C.albicans có tỷ lệ đề kháng với 5-flucytosin cao hơn C. non albicans (p<0,05). Hiện tượng đề kháng ≥2 loại thuốc gặp ở 34,78% C. non albicans. Kết luận: C. non albicans có phân bố phổ biến ở đường tiêu hóa bệnh nhi tại phòng Nhi Sơ sinh, khoa Sản bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế. Các chủng Candida được phân lập đều nhạy cảm tốt với amphotericin B và nystatin. C. albicans có hiện tượng đề kháng đáng kể với 5 flucystocine. C. non albicans đề kháng với azole, 5 flucystocine, caspofungin.
#Candida hoại sinh #mức độ nhạy cảm với thuốc kháng nấm #bệnh nhi sơ sinh
ĐẶC ĐIỂM NHẠY CẢM KHÁNG SINH VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NHIỄM TRÙNG CỔ SÂU DO TÁC NHÂN KLEBSIELLA PNEUMONIAE
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1A - 2022
Đặt vấn đề: Klebsiella pneumoniae là tác nhân vi khuẩn gram âm thường gặp nhất trong nhiễm trùng cổ sâu. K. pneumoniae có các chủng đa kháng gây khó khăn trong việc chọn lựa kháng sinh điều trị. Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm nhạy cảm kháng sinh và kết quả điều trị nhiễm trùng cổ sâu do tác nhân K. pneumoniae tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 06/2021 đến 06/2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả loạt ca, ghi nhận 46 bệnh nhân nhiễm trùng cổ sâu được điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 6/2021 đến 6/2022, có kết quả cấy mủ định danh K. pneumoniae và có kết quả kháng sinh đồ. Kết quả: K. pneumoniae nhạy cao với kháng sinh nhóm Carbapenem (93,5- 95,7%), nhóm Aminoglycoside (93,3- 93,5%), Cefoperazone/ Sulbactam (91,3%) và Tigecycline (91,3%). K. pneumoniae đa kháng chiếm tỷ lệ 32,6% gồm kiểu hình đa kháng (MDR) (26,1%) và đa kháng diện rộng (XDR) (6,5%). K. pneumoniae kiểu hình MDR (3/12 trường hợp tiết ESBL) còn nhạy 100% với kháng sinh nhóm Carbapenem. K. pneumoniae  kiểu hình XDR kháng 100% với Carbapenem và chỉ nhạy với Tigecycline. Tỷ lệ bệnh nhân nhiễm trùng cổ sâu nặng là 8,7%. Kết luận: K. pneumoniae trong nhiễm trùng cổ sâu nhạy cao với nhiều nhóm kháng sinh. Có sự xuất hiện các chủng K. pneumoniae đa kháng trong nhiễm trùng cổ sâu. Phần lớn K. pneumoniae đa kháng còn nhạy với kháng sinh nhóm Carbapenem. Chủng K. pneumoniae kháng Carbapenem chỉ còn nhạy cảm với Tigecycline. Tỷ lệ bệnh nhân nhiễm trùng cổ sâu nặng cao.
#Nhiễm trùng cổ sâu #Klebsiella pneumoniae
TÍNH KHÁNG KHÁNG SINH CỦA VI KHUẨN HAEMOPHILUS INFLUENZE VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VIÊM PHỔI DO HAEMOPHILUS INFLUENZE Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Haemophilus influenzae là một trong những nguyên nhân hay gặp nhất gây viêm phổi ở trẻ em. Mục tiêu nghiên cứu: Chúng tôi nghiên cứu đề tài này nhằm xác định tình hình đề kháng kháng sinh của H.influenzae và kết quả điều trị viêm phổi do H.influenzae ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu 151 bệnh nhi viêm phổi do H.influenzae từ 1 tháng-15 tuổi điều trị tại Trung Tâm Hô Hấp - Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 01 năm 2020 đến tháng 12 năm 2021. Kết quả: Tỷ lệ kháng kháng sinh của H.influenzae rất cao với kháng sinh Ampicillin 92,1%; Amoxicillin 92,7%; Cefaclor 84,4%; Cefuroxime 80,1%; Co-trimoxazol 94,7%; giảm nhạy cảm với Amoxicilin/A.Clavunanic (603%); không còn nhạy cảm với Cefixime 71,9%; Azithromycin 54,4%. Tuy nhiên, H.influenzae vẫn còn nhạy cảm với Ceftriaxone (98,7%); Ciproflozaxin (95,4%) và  Meropenem (100%). Kết quả điều trị: bệnh nhi khỏi hoàn toàn 7,9% và đỡ bệnh 92,1% và không có bệnh nhi tiến triển nặng lên hoặc tử vong. Thời gian điều trị trung bình là 7,1 ± 4,4 ngày. Kết luận: H.influenzae có tỷ lệ kháng rất cao với các kháng sinh thông thường để điều trị viêm phổi. Sử dụng thuốc kháng sinh không hợp lý và lạm dụng thuốc kháng sinh làm gia tăng tỷ lệ kháng kháng sinh của vi khuẩn H.influenzae nói riêng và vi khuẩn gây bệnh nói chung. H.influenzae còn nhạy cảm cao với kháng sinh Ceftriaxone và Meropenem. Kết quả điều trị tốt, không có bệnh nhi nặng lên và tử vong.
#Haemophilus influenzae #viêm phổi #trẻ em #tính nhạy cảm kháng sinh
NGHIÊN CỨU TỶ LỆ NHIỄM LIÊN CẦU NHÓM B Ở THAI PHỤ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - 2022
Mục tiêu nghiên cứu: xác định tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn (LCK) nhóm B và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ có thai từ 34-36 tuần tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội và xác định mức độ nhạy cảm của một số kháng sinh với nhiễm LCK nhóm B. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 220 thai phụ tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Các thai phụ có tuổi thai từ 34-36 tuần sẽ được lấy mẫu bệnh phẩm ở hai vị trí là 1/3 ngoài của âm đạo và ở trực tràng. Bệnh phẩm được gửi đến khoa Vi sinh trong vòng 3 giờ kể từ khi lấy mẫu để phân lập và định danh vi khuẩn. Thai phụ nhiễm LCK nhóm B sẽ được làm kháng sinh đồ, sau đó điều trị và theo dõi chuyển dạ đẻ theo đúng quy định. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm LCK nhóm B ở các thai phụ có tuổi thai từ 34-36 tuần trong thời giạn nghiên cứu là 13,2%. Trong nhóm có tiền sử sảy thai, tiền sử sảy thai có nguy cơ nhiễm liên cầu nhóm B gấp 4,36 lần so với nhóm không có tiền sử sảy thai lần nào (OR =4,36, 95% CI : 1,3-13,2). Tỷ lệ nhiễm LCK nhóm B ở nhóm thai phụ thụt rửa âm đạo chiếm 40,0% cao hơn so với nhóm không có thói quen vệ sinh này, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Độ nhạy cảm của Penicillin, Ampicillin, Augmentin, Ceftriaxone, Cefotaxime, Cefuroxim lần lượt là 86,21%, 79,31%, 89,66%, 65,52%, 65,52%, 72,41%. Liên cầu khuẩn nhóm B nhạy cảm với Vancomycin và Linezolid lần lượt là 72,41% và 89,66%. Kết luận: Tỷ lệ nhiễm LCK nhóm B ở các thai phụ có tuổi thai từ 34-36 tuần tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội là 13,2%. Có hai yếu tố là tiền sử sảy thai và thụt rửa âm đạo làm tăng nguy cơ nhiễm LCK nhóm B lên cao hơn lần lượt gấp 3,9 và 5,7 lần so với nhóm không có tiền sử này. Mức độ nhạy cảm kháng sinh của LCK nhóm B với Penicillin và Ampicillin còn tương đối cao và đây vẫn là hai kháng sinh ưu tiên sử dụng dự phòng cho các thai phụ nhiễm LCK nhóm B.
#liên cầu khuẩn nhóm B #phụ nữ có thai #nhạy cảm kháng sinh
Tổng số: 37   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4